Ở Việt Nam, việc chọn lọc bò đực giống HF chủ yếu vẫn chọn theo kiểu hình. Thực tiễn nước ta đã có một số công trình nghiên cứu chọn bò đực giống chuyên sữa HF theo kiểu di truyền nhưng còn đơn điệu; một số công trình đã bắt đầu đi vào quy trình kiểm tra bò đực giống qua đời sau nhưng chưa thực hiện hoàn chỉnh các bước của quy trình.
Nhằm chọn được những bò đực giống tốt nhất phục vụ công tác giống bò sữa Việt Nam, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu chọn lọc bò đực giống HF theo GTG về TNS của con cái.
Nghiên cứu thực hiện trên 6 bò đực giống HF được chọn lọc sau khi kiểm tra chị em gái. Nội dung nghiên cứu: SLS chu kỳ 305 ngày và chat lượng sữa (tỉ lệ mỡ sữa và Protein sữa) lứa sữa đầu; SLS tiêu chuẩn 4% mỡ sữa/chu kỳ 305 ngày của lứa sữa đầu; xác định GTG về TNS của từng đực giống thông qua SLS.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: SLS chu kỳ 305 ngày của lứa sữa đầu trung bình là 5.474,90 kg/chu kỳ (5.635,53- 5.315,56 kg/chu kỳ). Sự sai khác về giá trị trung bình của SLS giữa các đàn bò con gái của các bò đực giống có ý nghĩa thống kê (P<0,05). SLS tiêu chuẩn của đàn bò con gái trung bình là 5.126,70 kg/chu kỳ. Tỉ lệ mỡ sữa và Protein sữa ở chu kỳ sữa đầu của đàn bò con gái là 3,58 ± 0,01% và 3,27 ± 0,01%. Giá trị giống ước tính (GTG) về tiềm năng sữa (TNS) của 6 bò đực giống thông qua SLS con gái đều đều đạt dương khá cao, giao động từ + 285,29 đến +851,54 kg sữa/ chu kỳ với độ tin cậy cao (93,39%, 94,96%). Từ GTG về TNS của 6 bò đực giống đã chọn được 3 bò đực giống có GTG về TNS dương cao: từ +647,96 đến +840,95 kg sữa/ chu kỳ. Sử dụng những bò đực giống này để sản xuất tinh đông lạnh, thụ tinh nhân tạo cho đàn bò cái HF chắc chắn sẽ nâng cao SLS đời sau và mang lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi bò sữa.
Phạm Văn Tiềm và CTV
Nguồn: Tạp chí KHKT Chăn Nuôi