• Tiếng Việt
  • Tiếng Anh

Tin tức

PHÚC LỢI ĐỘNG VẬT (P2): HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI CHĂN NUÔI

 
 [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam]– Đảm bảo phúc lợi động vật không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân con vật mà có lợi ích thiết thực cho con người, xã hội và môi trường.

Phúc lợi động vật (P2): Hiệu quả đối với chăn nuôi

Phúc lợi động vật mang lại hiệu quả thiết thực đối với ngành chăn nuôi

Điều đó có thể thấy được trên các khía cạnh sau:

– Đảm bảo phúc lợi tốt cho vật nuôi có thể đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho người chăn nuôi (xem lý giải ở phần sau).

– Việc đối xử tàn tệ và sao nhãng động vật bằng nhiều cách có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe đối với con người; ngược lại, quan tâm đến động vật có thể giảm thiểu các nguy cơ sức khỏe cho con người. Ví dụ, bảo vệ và đối xử tốt với động vật sẽ giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh ở động vật và nhờ đó giảm thiểu những bệnh truyền lây chung giữa động vật và con người (zoonoses).

– Thái độ và cách cư xử với động vật là một khía cạnh có ý nghĩa trong sự phát triển của nhân cách con người và đạo đức xã hội. Điều này một phần là vì thái độ và cách đối xử với động vật không khác mấy với thái độ và cách cư xử giữa con người với nhau, giữa chúng có sự đan xen vào nhau. Chừng nào con người mở rộng được vòng tay nhân ái cho muôn loài thì mới tìm được sự bình yên cho chính mình. Người ta cũng đã có bằng chứng về mối quan hệ giữa lạm dụng động vật và bạo lực giữa con người với nhau (Arluke & cs, 1999).

– Đảm bảo phúc lợi động vật có nghĩa là chăm lo cho môi trường sống, duy trì đa dạng sinh học động vật. Điều đó có lợi cho môi trường và sự phát triển bền vững.

Đạo đức với động vật

Động vật đem lại lợi ích cho con người thì con người cần phải có nghĩa vụ trở lại đối với động vật. Đạo đức với động vật (animal ethics) quan tâm tới hành động của con người, xem xét vấn đề đạo đức của của con người trong cách đối xử với con vật (Broom, 2006, 2010). Việc động vật được đối xử thế nào có ý nghĩa lớn với cả động vật và cả con người. Đây là một phần của hiểu biết rộng lớn hơn về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật. Chính vì thế Liên hiệp quốc đang trong quá trình tiến tới thông qua một Tuyên ngôn chung về phúc lợi động vật nhằm khuyến khích các chính phủ và cơ quan liên chính phủ trên toàn thế giới hành động để đảm bảo phúc lợi cho động vật, lợi ích của con người cũng như môi trường.

Đó là một thỏa thuận giữa con người với nhau và giữa các quốc gia để thừa nhận rằng động vật có tri giác (sentient) và có thể phải chịu đựng, nhằm tôn trọng các nhu cầu phúc lợi củachúng và chấm dứt vĩnh viễn việc đối xử tàn nhẫn với động vật. Cũng vì lý do đó, Tổ chức Thú y thế giới (OIE, 2011c) đã yêu cầu rằng việc sử dụng động vật phải được gắn liền với trách nhiệm đạo đức để đảm bảo phúc lợi của động vật đó đạt tới mức cao nhất có thể được.

Hiện nay, như một thông lệ trên Thế giới, các nghiên cứu có sử dụng động vật làm thí nghiệm phải được sự cho phép của các Hội đồng đạo đức động vật (animal ethics committee) để đảm bảo rằng các quy trình thí nghiệm không vi phạm phúc lợi động vật.

Hầu hết các trường đại học và viện nghiên cứu tiên tiến trên Thế giới đều có hội đồng này. Các tạp chí quốc tế về chăn nuôi và thú y có uy tín đều yêu cầu tác giả phải đệ trình giấy phép của hội đồng này cùng với bản thảo thì bài báo mới được xem đăng nếu thí nghiệm được tiến hành trên động vật.

Giáo dục và đào tạo về phúc lợi động vật

Phúc lợi động vật (P2): Hiệu quả đối với chăn nuôi

Tình yêu đối với động vật cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt ngay từ tuổi thơ ấu của mỗi con người.

Như đã nêu trên, việc bảo vệ tốt phúc lợi động vật, giảm bớt sự chịu đựng ở những động vật có tri giác, sẽ tạo ra nhiều lợi ích không chỉ cho bản thân con vật mà còn cho cả con người, xã hội và môi trường. Điều đó không phải ai cũng nhận thức được mà cần phải có sự giáo dục thỏa đáng.

Vì sự hình thành thái độ và cách cư xử với động vật là một một quá trình trong sự phát triển nhân cách của con người nên việc giáo dục về phúc lợi, hình thành tình yêu đối với động vật cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt ngay từ tuổi thơ ấu của mỗi con người. Xã hội càng phát triển, con người càng lệ thuộc vào thú cưng, họ cũng đặt yêu cầu cao hơn về cách cư xử và cần được hướng dẫn để hiểu và để xây dựng mối quan hệ của họ với thú cưng.

Những nhà chuyên môn làm việc liên quan đến động vật cũng càng cần được đào tạo để giúp họ nhạy cảm hơn với nhu cầu của động vật mà họ tiếp xúc. Người chăn nuôi phải hiểu được những nhu cầu phúc lợi của vật nuôi để biết cách chăm sóc, nuôi dưỡng chúng thỏa đáng. Bác sĩ thú y cần có kỹ năng cảm nhận được hành vi và suy nghĩ của vật nuôi để giúp quá trình can thiệp thú y hiệu quả hơn vì khi đó tương tác giữa bác sĩ thú y và đối tượng trở nên cụ thể và sâu sắc hơn.

Thế nhưng, phần lớn chương trình đào tạo chăn nuôi và thú y cho đến nay lại chỉ dành cho việc đào tạo về kỹ thuật chăn nuôi, vệ sinh phòng bệnh và điều trị bệnh tật. Đó là vì trước đây người ta rất ít chú ý đến việc con vật có cảm giác như thế nào. Thực ra động vật cũng có những cảm giác giống như con người: vui vẻ và đau đớn, thoải mái và cơ cực… Biết được cảm giác của động vật, biết được nhu cầu sống của chúng sẽ giúp con người nuôi được chúng khoẻ mạnh và có năng suất cao hơn.

Vì những lý do trên, theo Giáo sư Webster (WSPA, 2007) thì việc giảng dạy về phúc lợi động vật, bao gồm cả giảng dạy chính quy, trải nghiệm thực tiễn và tự đào tạo có hướng dẫn, cũng cần thiết cho một chương trình đào tạo thú y như là giảng dạy môn bệnh lý hay ngoại khoa.

Cũng chính vì thế, OIE đã chính thức đề nghị các nước thành viên đưa phúc lợi động vật vào giảng dạy trong các chương trình đào tạo về thú y và nông nghiệp và coi phúc lợi động vật là 1 trong 11 tiêu chuẩn đầu ra của một chương trình đào tạo bác sĩ thú y (OIE, 2011c).

Luật pháp về phúc lợi động vật

Khía cạnh đạo đức của phúc lợi động vật coi trọng cách đối xử của con người với động vật. Muốn có điều đó, ngoài việc giáo dục để con người có nhận thức và tự giác hành động về phúc lợi động vật thì cần phải có cả luật pháp, tức là thiết lập các quy tắc bắt buộc về cách thức ứng xử đối với động vật. Luật pháp về phúc lợi động vật phần lớn là do chính phủ các nước thiết lập, nhưng cũng có thể ở phạm vi rộng hơn. Ví dụ, Liên Hiệp châu Âu (EU) đã ban hành nhiều quy định về phúc lợi động vật, trong đó có việc cấm sử dụng chuồng cũi chật hẹp cho gà mái đẻ từ năm 2012. Năm 2003, 167 quốc gia thành viên của OIE đã thỏa thuận các tiêu chuẩn phúc lợi động vật toàn cầu đầu tiên cho việc vận chuyển đường bộ, vận chuyển đường biển, giết mổ làm thực phẩm, và giết để kiểm soát dịch bệnh. Từ 2005 đến nay OIE đã thông qua 7 tiêu chuẩn về phúc lợi động vật cho động vật trên cạn và 2 tiêu chuẩn phúc lợi động vật cho động vật thuỷ sinh (OIE, 2011a).

Phúc lợi với sức khỏe và sức sản xuất của vật nuôi

Tổ chức thú y thế giới (OIE, 2011b) công nhận rằng sức khỏe động vật chịu ảnh hưởng từ các mặt khác của phúc lợi động vật. Ngược lại, bệnh tật có thể ảnh hưởng nhiều khía cạnh khác của phúc lợi động vật, thậm chí có thể tới tất cả “5 Không”. Ví dụ, con vật có thể bị tổn thương miệng nên không thể ăn được, cũng như bị đau đớn. Hậu quả là con vật bị yếu, dễ mắc bệnh. Đó là một vòng luẩn quẩn. Tương tự, con vật có phúc lợi không tốt có thể là do những yếu tố không phải bệnh tật như làm việc quá sức, mệt mỏi nên rất dễ cảm nhiễm với bệnh truyền nhiễm, bởi vì hệ miễn dịch bị ức chế do kích thích trường diễn lên trục dưới đồi-tuyến yên-thượng thận dẫn tới tăng lượng cortisol và do đó ức chế đáp ứng miễn dịch. Cơ thể động vật thường không có khả năng duy trì đáp ứng trước tác động của những yếu tố stress nghiêm trọng và kéo dài. Tình trạng này khiến động vật nuôi trong điều kiện phúc lợi tồi dễ mắc bệnh hơn, giảm sức sản xuất (tốc độ sinh trưởng, sản lượng sữa, tỷ lệ thụ thai…). Ngược lại, vật nuôi trong điều kiện phúc lợi tốt, chúng cảm thấy thoải mái và cho năng suất tối đa có thể. Do vậy, ngày nay đảm bảo phúc lợi được coi như giải pháp tổng thể để đảm bảo sức khỏe của động vật và nâng cao năng suất của vật nuôi.

Phúc lợi động vật và hiệu quả kinh tế chăn nuôi

Khi đảm bảo được phúc lợi động vật tốt, người chăn nuôi có thể giảm thiểu một số chi phí đầu vào, đồng thời có thể tăng được năng suất và giá bán sản phẩm (McInerney, 2004). Đó là do:

– Khi vật nuôi có phúc lợi tốt chúng sẽ ít bị bệnh tật nên chi phí thú y sẽ được giảm thiểu.

– Khi vật nuôi có phúc lợi tốt thì năng suất của chúng sẽ tăng nên cho nhiều sản phẩm.

– Những vật nuôi có phúc lợi tốt thường cho sản phẩm có chất lượng cao hơn nên được người tiêu dùng chấp nhận mua với giá cao hơn.

– Thị trường thực phẩm với các tiêu chuẩn cao về phúc lợi động vật ngày càng mở rộng vì mối quan tâm của người tiêu dùng về phúc lợi động vật ở nhiều nước tăng nhanh. Do vậy, thị trường xuất khẩu có thể là một nguồn tiềm năng để tăng thu nhập cho người chăn nuôi biết đầu tư cải thiện phúc lợi động vật.

– Nếu con vật bị stress do đối xử tồi tệ trong quá trình vận chuyển và giết mổ sẽ làm giảm chất lượng thịt và thân thịt. Hậu quả là lò mổ có thể bị mất các hợp đồng cung cấp thịt cho các nhà bán lẻ. Do vậy, họ có thể phạt người chăn nuôi (hay vận chuyển) vì các lý do phúc lợi động vật tồi.

– Gia súc cày kéo bị sử dụng quá sức và/hay không được chăm sóc tốt sẽ bị ốm yếu, bệnh tật, đổ ngã, nhất là vào mùa vụ làm việc nắng nóng hay giá rét. Đó là một tổn thất kinh tế lớn cho người nông dân.

– Vậy thì tại sao để phúc lợi động vật tồi có thể làm giảm lợi nhuận và thu nhập cho người chăn nuôi mà nhiều người chăn nuôi lại không muốn hay không thể cải thiện phúc lợi động vật? Một số lý do có thể kể đến như sau:

– Người chăn nuôi và các bên liên quan chưa có được nhận thức đúng đắn trong khi chưa có luật pháp ràng buộc về phúc lợi động vật.

– Khó lượng hoá được để người chăn nuôi thấy được thiệt hại kinh tế gây ra bởi một vấn đề về phúc lợi như là bò bị sữa bị sốt sữa chẳng hạn. Khó khăn định lượng này làm cho người chăn nuôi có thể không thấy được lợi ích cụ thể của việc đề phòng hay khắc phục những vấn đề về phúc lợi cho vật nuôi của mình.Người nông dân có thể quá bận bịu nên không dành được thời gian thoả đáng cho việc theo dõi vật nuôi để tìm ra nhưng biểu hiện không bình thường, mặc dù nếu làm được việc đó thì sẽ cải thiện được phúc lợi và tăng năng suất chăn nuôi.

– Tâm lý lạc quan và tự tin cố hữu của người nông dân có thể ảnh hưởng đến việc đầu tư cải thiện phúc lợi động vật vì họ nghĩ rằng mọi việc đều sẽ tốt đẹp với vật nuôi của họ.

Ngược lại, họ cũng có thể cảm thấy quá lo lắng về những yếu tố bên ngoài như giá nông sản thực phẩm bấp bênh hay tình trạng kinh tế không được sáng sủa nên không yên tâm đầu tư cải thiện phúc lợi vật nuôi.

– Người chăn nuôi cũng có thể nhận ra được lợi ích lâu dài của việc cải thiện phúc lợi động vật, nhưng họ vẫn có thể không muốn có những đầu tư ngắn hạn cần thiết vì không thấy được lợi ích trước mắt. Hơn nữa, chi phí đầu tư là quá cao nếu phải thay đổi hệ thống chăn nuôi hiện có để có được phúc lợi động vật tốt hơn.

– “Đất chật người đông” là một lý do của việc đẩy mạnh thâm canh diện tích cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa” và “hiện đại hóa” chăn nuôi với nhiều hệ lụy về phúc lợi vật nuôi (xem phần dưới).

GS TS Nguyễn Xuân Trạch

Phó Hiệu trưởng Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Nguồn: Hội nghị Khoa học toàn quôc Chăn nuôi  – Thú y 2017

 

 

TƯ VẤN VỀ BÒ GIỐNG LIÊN HỆ 0912233974.TƯ VẤN KHÓA HỌC THỤ TINH NHÂN TẠO LIÊN HỆ 0974045596 HOTLINE: 0983666586